BÒ : (Bos), chi động vật có vú nhai lại, họ Trâu bò (Bovidae), nay còn
lại một loài Bos taurus, trong đó có B Zebu (B u) là tổ tiên của các
giống B nuôi hiện nay. B có đặc điểm chung: sừng rỗng, dạ dày 4 túi, bầu
vú có núm, dưới cổ có yếm, đuôi dài có túm lông ở mút đuôi. B rừng được
thuần hoá thành B nhà khoảng 8 - 7 nghìn năm tCn. Qua quá trình thuần
hoá, B là vật nuôi có nhiều ưu điểm về sinh trưởng và sinh sản: là động
vật đơn thai, B cái chửa trung bình 280 ngày, đẻ năm một; với kĩ thuật
thụ tinh nhân tạo và công nghệ sinh học (cấy phôi), B có thể sinh đôi,
sinh ba. B ăn cỏ là chính (trong khẩu phần ăn, thức ăn thô xanh chiếm
90%, thức ăn tinh 10%), nhưng khả năng tăng trọng một ngày đêm có thể
đạt trên 1 kg. B có hệ thần kinh phát triển nên có khả năng thích nghi,
chống chịu tốt hơn nhiều loài vật nuôi khác. B động dục quanh năm, nên
dễ điều khiển mùa vụ sinh đẻ.
Trên thế giới, B có khoảng hơn 500 giống, tổng số hơn 1.200 triệu con.
Một số giống B được ưa chuộng hiện nay: B Sarôle là giống B thịt chuyên
dụng của Pháp; B Jơxy là giống B sữa có nguồn gốc từ đảo Jơxy (Anh),
thích hợp với điều kiện nhiệt đới; B Xin thuộc nhóm B Zebu, xuất xứ từ
tỉnh Xin (Sindh; Pakixtan), đã được lai với giống Việt Nam thành B
lai Xin, có năng suất thịt, sữa cao hơn giống địa phương; B sữa giống Hà
Lan (B Hônxtainơ - Friexian); B nâu Thuỵ Sĩ (bò Brao Xuyt) kiêm dụng
thịt sữa. Xt. Trâu bò.
Chọn giống bò thịt:
Bò nội có ưu điểm là thích nghi với khí hậu nóng ẩm, phù hợp với tập
quán nuôi tận dụng, chịu được kham khổ nhưng tầm vóc lại nhỏ, tăng trọng
chậm, tỷ lệ thịt xẻ thấp.
Để chăn nuôi bò thịt đạt hiệu quả cao nên lai tạo giống nhằm tạo ra
nguồn giống có ưu thế về năng suất và trọng lượng, lại phù hợp với điều
kiện, tập quán chăn nuôi của từng địa phương.
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm của các nhà khoa học khuyến cáo
cho nông dân sử dụng các giống bò có năng suất cao để phối giống cho đàn
bò cái nội sinh sản để từng bước nâng cao tầm vóc, trọng lượng và sức
sản xuất của con lai.
Chọn giống:
- Chọn nhóm bò lai Zebu (gồm 3 con giống chính: bò Sind, bò Sahiwal và
bò Brahman). Đây là những giống bò xuất phát từ những nước nhiệt đới, có
khả năng chống chịu được với khí hậu ở Việt Nam.
- Bò Sind: có lông màu cánh gián, con đực trưởng thành nặng 450-500kg,
con cái nặng 320-350kg. Khối lượng sơ sinh 20-21kg, tỷ lệ thịt xẻ 50%,
phù hợp với điều kiện chăn nuôi chưa đảm bảo thường xuyên về thức ăn
xanh và hạn chế nguồn thức ăn tinh.
- Bò Sahiwal: ngoại hình gần giống bò Sind nhưng tầm vóc cao hơn. Con
đực trưởng thành nặng 500-550kg, con cái nặng 400kg, phù hợp với điều
kiện chăn nuôi trung bình tức là đảm bảo tương đối đầy đủ lượng thức ăn
tinh và thức ăn xanh.
- Bò Brahman: được nuôi rộng rãi ở nhiều nước nhiệt đới và cận nhiệt
đới. Có màu lông trắng xám hoặc đỏ. Ngoại hình chắc, hệ cơ phát triển,
tai to cụp xuống. Con đực trưởng thành nặng 600-700kg, con cái nặng
380kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt 52,5%. Bò này yêu cầu cao về lượng thức ăn thô
xanh và thức ăn tinh vì vậy thích hợp với những nơi có điều kiện chăn
nuôi tốt, am hiểu về kỹ thuật chăn nuôi, hiệu quả kinh tế rất cao.
Ngoài 3 giống trên, nguồn giống khác được tạo ra từ đàn bò sữa cũng đem lại hiệu quả cao trong chăn nuôi bò thịt.
Để chủ động giống trong chăn nuôi bò thịt nên nuôi bò sinh sản để lai
tạo giống nhằm cho ra giống bò thịt hiệu quả nhất và phù hợp với điều
kiện chăn nuôi.
Tạo giống:
Muốn tạo giống phát triển đàn bò thịt, trước hết phải tạo đàn bò cái
giống để làm nền cho lai tạo với giống bò đực có tầm vóc lớn hơn và
giống bò Vàng của Việt Nam là thích hợp nhất vì nó thích nghi với khí
hậu nhiệt đới nóng ẩm, chịu được mức độ nuôi dưỡng kém, chống chịu được
nhiều loại bệnh tật, ký sinh trùng, mắn đẻ nhưng tầm vóc nhỏ bé.
Người ta lấy bò cái Vàng làm nên cho lai với đực giống Zebu tạo ra con
lai F1. Tiếp tục lấy con lai F1 cho lai tiếp với đực Zebu tạo ra con lai
F2. Con lai F2 này được dùng làm giống để phát triển đàn bò thịt chất
lượng cao.
Để giảm tỷ lệ rủi ro cho chăn nuôi bò sinh sản nên chọn con có trọng
lượng từ 160kg trở lên, ngoại hình đẹp, tính hiền lành, mắn đẻ, phàm ăn,
không có vú lép, mông nở. Việc phối giống phải thông qua các kỹ thuật
viên cơ sở.
Nuôi dưỡng chăm sóc vỗ béo theo giai đoạn
* Giai đoạn nuôi lớn - từ 6 - 21 tháng tuổi:
Trong giai đoạn này bê non hoàn thiện các cơ quan nội tạng, phát
triển mạnh các chiều cơ thể và tăng trọng nhanh. Chính vì vậy, cần cung
cấp cho bê các loại thức ăn nhiều protein như cỏ họ đậu (cỏ stylo, lá
keo dậu...), khô dầu, bột cá và nếu cần thiết, có thể bổ sung thêm urê
vào khẩu phần dưới các dạng khác nhau. Hàng ngày chăn thả bê non trên
bãi hoặc trên cánh đồng 8-10 giờ, để bê có thể tận dụng được nhiều cỏ
tươi, đồng thời bê có điều kiện vận động dưới nắng ấm, cơ thể tổng hợp
được nhiều vitamin D làm cho bộ xương phát triển vững chắc.
* Giai đoạn vỗ béo - từ 22 đến 24 tháng tuổi:
Nuôi vỗ béo, là một phương thức chăn nuôi thâm canh được áp dụng
trong một thời gian ngắn trước khi giết thịt nhằm đạt mức tăng trọng
cao, tích luỹ mỡ nhanh, giảm chi phí sản xuất, đồng thời cải thiện chất
lượng thịt và tăng hiệu quả chăn nuôi.
Hiệu quả vỗ béo bò thịt phụ thuộc vào:
- Tuổi vỗ béo: vỗ béo bò ở lứa tuổi còn
non cho hiệu quả cao. Bởi vì, bò non có tốc độ lớn nhanh, với bộ răng
chắc khoẻ nên khả năng tiêu hoá và đồng hoá thức ăn tốt hơn, khả năng
tích luỹ cũng cao hơn. Hơn nữa, vỗ béo ở lứa tuổi còn non cho tỷ lệ thịt
sẽ cao, chất lượng và độ mềm của thịt tốt hơn. Có thể bắt đầu đưa vào
vỗ béo từ 22 tháng tuổi.
- Giống bò đưa vào vỗ béo: Những giống
bò chuyên dụng thịt cho kết quả vỗ béo tốt nhất so với các giống bò kiêm
dụng hoặc các giống bò địa phương. Bởi vì, chúng đã được chọn tạo để
sản xuất thịt, có khả năng tăng trọng cao và cho tỷ lệ thịt sẽ cao.
- Thức ăn sử dụng để vỗ béo: Có ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất vỗ béo và phẩm chất thịt bò. Số lượng và
chất lượng thức ăn đóng vai trò quan trọng trong việc vỗ béo. Ngoài ra,
kỹ thuật cho ăn và cả phương thức chế biến thức ăn cũng có tác dụng đối
với hiệu quả của vỗ béo.
Thông thường, thức ăn của bò vỗ béo bao
gồm cỏ tươi, cỏ khô, rơm lúa khô, thức ăn tinh và thức ăn củ quả. Cần
cho ăn loại thức ăn tinh giầu năng lượng để giúp cho cơ thể tích luỹ mỡ
nhanh và bò chóng béo. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng gia đình, mỗi
ngày có thể cung cấp cho mỗi con bò vỗ béo 1-2kg thức ăn tinh. Trong
giai đoạn này cần hạn chế bê non vận động bằng cách chăn thả gần chuồng
để tập trung chất dinh dưỡng vào việc tích luỹ mỡ và nâng cao độ béo.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay,
một số lượng lớn trâu bò sau một thời gian sử dụng không còn khả năng
sinh sản, làm việc được nữa và được giết thịt. Loại trâu bò này thường
gầy yếu, tỷ lệ thịt sẽ thấp và chất lượng thịt không cao, nếu không được
vỗ béo trước khi giết mổ. Vỗ béo loại trâu bò này để làm sao sau giai
đoạn vỗ béo khối lượng cơ thể tăng 15-20%. Phương thức chăn nuôi chủ yếu
là chăn thả trên đồng bãi, kết hợp với thêm cỏ, rơm và thức ăn tinh tại
chuồng. Đối với các tỉnh phía Bắc, tốt nhất là vỗ béo trâu bò vào mùa
Thu, vì lúc này lượng cỏ tươi phong phú, hơn nữa, thời tiết cũng mát mẻ.
Còn đối với các tỉnh phía Nam, có thể vỗ béo trâu bò quanh năm, nhưng
vỗ béo vào mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 10 là kinh tế nhất. Thời gian
vỗ béo loại trâu bò này thường là 3 tháng:
- Tháng thứ nhất: tiến hành dọn vệ sinh
chuồng trại, tẩy giun sán cho trâu bò và cho ăn đủ rơm, cỏ. Đối với
những con gầy yếu thì cho ăn thêm các loại thức ăn giàu đạm để nhanh
chóng phục hồi cơ thể, tạo đà cho những tháng tiếp theo.
- Tháng thứ hai: chăn thả gần, cho ăn cỏ thoả mãn, tăng lượng thức ăn tinh, bảo đảm đủ nước uống.
- Tháng thứ ba: cung cấp cho trâu bò
loại thức ăn giàu gluxit, chăn thả gần chuồng để hạn chế tiêu hao năng
lượng và tăng tích luỹ mỡ.
Người ta đều biết rằng trâu bò là con vật sử dụng có hiệu quả thức ăn
thuộc tất cả các loại hệ thống nuôi dưỡng. Trong điều kiện chăn nuôi gia
đình ở nước ta có hai cách vỗ béo thích hợp là:
- Vỗ béo bằng chăn thả: chăn thả trâu bò
trên bãi chăn 8-10 giờ mỗi ngày để tận dụng cỏ tươi mà không tốn công
phu cắt và vận chuyển về chuồng. Ban đêm bổ sung thêm thức ăn tinh và
muối ăn. Cách vỗ béo này áp dụng cho những nơi có đồng bãi chăn thả rộng
và năng suất cỏ tươi tương đối khá, bảo đảm cho trâu bò mỗi ngày thu
lượm được 20-25kg cỏ tươi.
- Vỗ béo bằng hình thức bán chăn thả: áp
dụng cho những nơi ít bãi chăn (như vùng đồng bằng, vùng ven đô, khu
công nghiệp). Trâu bò chỉ tận dụng được một phần hoặc một nửa khẩu phần
thức ăn trên bãi chăn. Phần còn lại phải bổ sung tại chuồng nuôi, trong
đó phải lưu ý đến thức ăn tinh.
Dù áp dụng phương thức vỗ béo nào và với
đối tượng trâu bò nào, việc bảo đảm nước uống cho trâu bò là rất cần
thiết, đặc biệt là vào mùa khô hanh. Luôn luôn phải bảo đảm cho trâu bò
có nước uống sạch sẽ và cho uồng không hạn chế. Thiếu nước sẽ ảnh hưởng
đến quá trình trao đổi chất và dẫn đến giảm khối lượng cơ thể.
Nguồn: Theo TT Tin học thống kê - Bộ Nông nghiệp